Tình trạng ô nhiễm nguồn nước vượt khỏi khả năng kiểm soát do các hoạt động sinh sản, vỡ hoang, kinh dinh, dịch vụ đang đòi hỏi Việt Nam phải khẩn trương xây dựng một khung pháp lý đủ mạnh và hiệu quả để ngăn ngừa ô nhiễm nước. Với nhiều hệ thống xử lý nước thải không đạt tiêu chuẩn, hoặc đã cũ không có khả năng đáp ứng được với yêu cầu xử lý thực tế. Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, trọng tâm Nghiên cứu Môi trường và Cộng đồng phối hợp với các tổ chức quốc tế có đánh giá tổng thể tất trạng ô nhiễm nguồn nước tại Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm giảm nguy cơ và kiểm soát tình trạng ô nhiễm.

Hệ thống nước mặt Việt Nam với hơn 2.360 con sông, suối dài hơn 10km và hàng nghìn hồ, ao. Nguồn nước này là nơi trú ngụ và nguồn sống của các loài động, thực vật và hàng triệu người. Tuy nhiên, những nguồn nước này đang bị suy thoái và phá hủy nghiêm trọng do khai phá quá mức và bị ô nhiễm với chừng độ khác nhau. Thậm chí nhiều con sông, đoạn sông, ao, hồ đang “chết”. Lý do vì sao chắc bạn đã biết, với tình trạng đô thị hóa chóng mặt như bây chừ, cùng với khối lượng khổng lồ những chất thải, rác thải , nước thải đi vào môi trường. Các loại nước thải sinh hoạt, nước thải bệnh viện, nước thải công nghiệp khi vào môi trường mà không qua xử lý sẽ tàn phá nghiêm trọng môi trường, ảnh hướng trực tiếp tới cuộc sống của chính con người. Một số khác thì hệ thống xử lý nước thải chưa tốt, hiệu xuất không cao, không thẳng bảo trì hệ thống xử lý nước thải …. cũng là căn nguyên,

chừng độ ô nhiễm nước đang ngày càng gia tăng do không kiểm soát nguồn gây ô nhiễm hiệu quả. Tình trạng này đang gây ra những ảnh hưởng đến sức khỏe của người, làm tăng nguy cơ ung thư, sảy thai và dị tật bẩm sinh, dẫn đến suy giảm giống nòi. Tại một số địa phương của Việt Nam, khi nghiên cứu các trường hợp ung thư, viêm nhiễm ở đàn bà, đã thấy 40 – 50% là do từ sử dụng nguồn nước ô nhiễm.



Thống kê và đánh giá của Bộ Y tế và Bộ Tài Nguyên môi trường làng nhàng mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 9.000 người tử vong vì nguồn nước và điều kiện vệ sinh kém và gần 200.000 trường hợp mắc bệnh ung thư mới phát hiện, mà một trong những duyên cớ chính là dùng nguồn nước ô nhiễm.

Theo khảo sát của Trung tâm Quan trắc môi trường Quốc gia – Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho thấy hiện trạng môi trường nước mặt đất liền nhiều nơi bị ô nhiễm nghiêm trọng. Miền Bắc hội tụ đông dân cư (đặc biệt là Đồng bằng sông Hồng) lượng nước thải thành phố lớn hồ hết của các đô thị đều chưa được xử lý và xả trực tiếp vào các kênh mương và chảy thẳng ra sông. Ngoài ra một lượng lớn nước thải công nghiệp, làng nghề cũng là sức ép lớn đối với môi trường nước.

Quy trình xử lý nước thải tại sông nhuệ không tốt
Xử lý nước thải sinh hoạt không tốt tại một đoạn sông nhuệ
Hà Nội

Một số sông ở vùng núi Đông Bắc như: Chất lượng sông Kỳ Cùng và các sông nhánh trong những năm gần đây giảm sút xuống loại A2, sông Hiến, sông Bằng Giang còn ở mức B1. Đầu nguồn (Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang) vài năm gần đây mùa khô xuất hiện hiện tượng ô nhiễm thất thường trong thời kì ngắn 3 – 5 ngày. Sông Hồng qua Phú Thọ, Vĩnh Phúc hầu hết các tham số vượt QCVN 08:2008 – A1, một số địa điểm gần các nhà máy thậm chí xấp xỉ B1 (đoạn sông Hồng từ Cty Super Phốt phát và hóa chất Lâm Thao đến KCN phía nam TP.Việt Trì), các thông số vượt ngưỡng B1 nhiều lần. So với các sông khác trong vùng, sông Hồng có mức độ ô nhiễm thấp hơn.

Sông Cầu thời gian qua nhiều đoạn đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, nhất là các đoạn sông chảy qua các thành thị, KCN và các làng nghề thuộc tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh. Sông Ngũ Huyện Khê là một trong những điển hình ô nhiễm trên lưu vực sông Cầu và tình trạng ô nhiễm nặng gần như không thay đổi. Lưu vực sông Nhuệ – Đáy nhiều đoạn bị ô nhiễm tới mức báo động, vào mùa khô giá trị các thông số BOD5, COD, TSS… tại các điểm đo vượt QCVN 08:2008 loại A1 nhiều lần. Sông Nhuệ bị ô nhiễm nặng sau khi kết nạp nước từ sông Tô Lịch. Lưu vực sông Mã riêng thông số độ đục rất cao, do lượng phù sa lớn và hiện tượng xói mòn từ thượng nguồn.

Miền Trung và Tây Nguyên có một số khu vực chất lượng nước giảm do việc đổi dòng phục vụ các công trình thủy lợi (hiện tượng ô nhiễm trên sông Ba vào mùa khô). Nguồn ô nhiễm chính khu vực Đông Nam Bộ là nguồn ô nhiễm nước mặt đẵn do nước thải công nghiệp và sinh hoạt. Sông Đồng Nai khu vực thượng lưu sông chất lượng nước tương đối tốt nhưng khu vực hạ lưu (đoạn qua TP. Biên Hòa) nước sông đã bị ô nhiễm.

Sông Sài Gòn trong những năm gần đây chừng độ ô nhiễm mở mang hơn về phía thượng lưu. Sông Thị Vải các khu vực ô nhiễm trước đây đã từng bước được khắc phục một số điểm ô nhiễm cục bộ. Hệ thống sông ở Đồng bằng sông Cửu Long nước thải nông nghiệp lớn nhất nước (70% lượng phân bón được cây và đất thu nạp, 30% đi vào môi trường nước). thành ra chất lượng nước sông Tiền và sông Hậu đã có dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ (chừng độ ô nhiễm sông Tiền cao hơn sông Hậu). Sông Vàm Cỏ bị ô nhiễm bởi nhiều yếu tố: Hoạt động sản xuất từ nhà máy, khu dân cư tập hợp. Sông Vàm Cỏ Đông có mức độ ô nhiễm cao hơn sông Vàm Cỏ Tây.

san sẻ kết quả nghiên cứu với các con số, hiện tượng đáng báo động, PGS.TS Phạm Văn Lợi, Viện trưởng, Viện Khoa học Quản lý môi trường (Tổng cục Môi trường) san sẻ: “Chất lượng nước bị ô nhiễm đến mức báo động do hàm lượng dinh dưỡng, chất hữu cơ, cặn lửng lơ vượt chuẩn cho phép như sông Cầu, Thị Vải, Nhuệ – Đáy, Đồng Nai… Ô nhiễm nước không giảm mà càng ngày càng gia tăng. Hiện chưa có văn bản cụ thể, chuyên biệt quy định về kiểm soát ô nhiễm nước